Tác giả: Robert Stanley |
Khi Trung Quốc đẩy mạnh các yêu sách chủ quyền đối với hầu như toàn bộ Biển Đông, các nhà Hán học và sử gia ngoại giao cho rằng Bắc Kinh đang dựa vào những tài liệu cũ bị xuyên tạc và các lập luận thiếu căn cứ lịch sử.
Trong khi đó, các tàu chiến Trung Quốc liên tục đối đầu và quấy rối tàu thuyền của các quốc gia láng giềng, trong đó có Philippines.
Cuối tháng 8, Viện Tân Hoa, một tổ chức tư vấn chính sách trực thuộc Tân Hoa Xã, đã công bố một loạt bài viết bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh với tiêu đề “Sự thật về Biển Đông”.
Loạt bài này, theo nhận định chung của các nhà phân tích nước ngoài là tuyên truyền, khẳng định Trung Quốc “luôn là người ủng hộ, thúc đẩy và bảo vệ sự ổn định” ở Biển Đông.
![Người biểu tình đeo những tấm giấy cắt hình sứa biển đã tập trung trước lãnh sự quán Trung Quốc ở Manila hôm 19/3. Họ kêu gọi chính phủ Philippines khởi kiện Trung Quốc tại Tòa Công lý Quốc tế, để yêu cầu bồi thường thiệt hại môi trường do các hoạt động bị cho là phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. [Nguồn: Ted Aljibe/AFP]](/gc9/images/2025/09/15/51969-afp__20250319__37322ez__v1__highres__philippineschinamaritime__1_-370_237.webp)
![Đồ họa minh họa các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và các yêu sách chủ quyền đối với các đảo, bãi đá và thực thể hàng hải khác ở Biển Đông. Yêu sách của Trung Quốc, gọi là “đường chín đoạn”, mâu thuẫn với các tuyên bố chủ quyền cạnh tranh từ Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam. [Nguồn: The Geostrata/Instagram]](/gc9/images/2025/09/15/51970-map-370_237.webp)
Nhà phân tích Priscilla A. Tacujan thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ viết trên tạp chí Proceedings của Viện Hải quân Hoa Kỳ số tháng 8/2024 rằng, các yêu sách mang tính dân tộc cực đoan của Bắc Kinh đối với hơn 80% diện tích Biển Đông xuất phát một phần từ việc 60% kim ngạch thương mại của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển.
Trung Quốc bắt đầu đưa ra các yêu sách rộng lớn này từ năm 2013.
Những yêu sách thiếu cơ sở
Không may cho Trung Quốc, vì các lập luận của Tân Hoa Xã là thiếu cơ sở.
Những lập luận này chỉ có vẻ ngoài trang trọng. Một nhánh trong đó viện dẫn lịch sử ngoại giao.
Sau Thế chiến II, các quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) đã được trả lại cho Trung Quốc, theo Tân Hoa Xã.
Tuy nhiên, không một hiệp ước nào sau năm 1945 mà chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc khi đó ký kết trao chủ quyền Trường Sa hay Hoàng Sa cho Trung Quốc.
Hiệp ước San Francisco yêu cầu Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với các đảo này, nhưng không chỉ rõ quốc gia nào sẽ tiếp nhận kiểm soát.
Thứ hai, tài liệu của Tân Hoa Xã khẳng định Biển Đông là “vùng biển tổ tiên” của Trung Quốc với 2.000 năm hiện diện lịch sử.
Thực tế, Trung Quốc chỉ bắt đầu yêu sách Hoàng Sa từ năm 1909, theo Bill Hayton, cộng tác viên tại Chatham House, London, trình bày tại một hội nghị quốc tế ở Hà Nội năm 2021.
Ông Vũ Hải Đăng, một học giả pháp lý tại Đại học Quốc gia Singapore, phát biểu tại cùng hội nghị rằng "Việt Nam đã khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 15”.
Lập luận thứ ba của Tân Hoa Xã cho rằng, Trung Quốc đã phát hiện và chiếm đóng các đảo ở Biển Đông, do đó có quyền kiểm soát, đã bị bác bỏ trong phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực.
Trung Quốc tẩy chay toàn bộ quá trình này và tuyên bố với tòa: “Không chấp nhận trọng tài do Philippines khởi xướng”.
Những luận điệu bịa đặt
Nhiều yêu sách của Trung Quốc dựa trên các bản dịch sai trong một atlas thập niên 1930 của nhà địa lý tự học Bai Meichu, theo Hayton năm 2024.
Bai sao chép atlas Anh năm 1918 và dùng bản dịch cẩu thả các thuật ngữ địa lý Anh – Trung của một ủy ban chính phủ, Hayton giải thích.
Ví dụ, ủy ban này dịch “bank” và “shoal” một cách tùy tiện thành “tan”, tức bãi cát.
Theo luật pháp quốc tế, chỉ những thực thể nổi trên mặt nước khi thủy triều lên cao mới được coi là lãnh thổ và có Vùng Kinh tế Đặc quyền.
Hayton viết: “Những yêu sách (của Trung Quốc) sụp đổ khi bị phân tích lịch sử. Một lượng lớn sử học đã bị đảo ngược để biện minh cho các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo này”.
Ông Rommel Jude G. Ong, cựu Phó tư lệnh Hải quân Philippines và hiện là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Quản lý Ateneo thuộc Đại học Manila, nhận định trên Japan Times tháng 6 vừa qua: Các yêu sách hàng hải của Trung Quốc là "thực tại bịa đặt của tư duy cộng sản”.
Ông cho rằng Trung Quốc đã “khéo léo” sử dụng các cuộc đàm phán để “hợp pháp hóa việc sáp nhập trái phép” các khu vực như quần đảo Trường Sa và “việc thực thi phi pháp các quyền hàng hải”.
“Trung Quốc không có quyền đặt ra luật lệ dựa trên lịch sử tưởng tượng và lợi ích bịa đặt”, Ong viết.
Tham vọng kiểm soát
Việc tự do tiếp cận Biển Đông sẽ cho phép Trung Quốc thay thế Mỹ trở thành cường quốc chi phối khu vực, đảm bảo tự do lưu thông cho các tàu hàng, và đe dọa hoặc xâm lược Đài Loan mà không bị cản trở.
Đài Loan dân chủ là một hình mẫu thay thế mà các lãnh đạo độc tài của Trung Quốc căm ghét.
Cách mà Trung Quốc bẻ cong lịch sử về các vùng biển và hải đảo, rạn san hô, bãi cát chiến lược có tranh chấp này sẽ quyết định việc các quốc gia láng giềng đánh giá tính hợp pháp của các yêu sách đó và mức độ họ sẵn sàng phản kháng.
Xây dựng quân sự và kinh tế
Thay vì chỉ đưa ra các tài liệu, Bắc Kinh đang tập trung xây dựng sức mạnh để ép buộc các nước láng giềng.
Sau nhiều thập niên tích cực xây dựng, Trung Quốc “hiện có [hạm đội] lớn nhất thế giới, vận hành 234 tàu chiến so với 219 tàu của Hải quân Mỹ,” BBC đưa tin hồi tháng 8.
Trong khi đó, Trung Quốc dự kiến đạt tăng trưởng GDP 4,8% năm nay, so với 1,9% của Mỹ, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
![Một cảnh cắt từ video do lực lượng tuần duyên Philippines cung cấp cho thấy các tàu tuần duyên Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu Philippines gần bãi Scarborough, Biển Đông, vào ngày 30/4/2024. [Nguồn: Jam Sta Rosa/AFP]](/gc9/images/2025/09/15/51968-afp__20240306__34kt2ut__v1__highres__philippineschinamaritimediplomacy-370_237.webp)